Vỗ béo bò trước khi bán thịt rất quan trọng, làm tăng hiệu quả chăn nuôi do tăng khối lượng và chất lượng thịt. Sử dụng nguồn thức ăn là phế phụ phẩm nông nghiệp để vỗ béo bò trên cơ sở có bổ sung khẩu phần ăn (thức ăn tinh). Tuy nhiên cho đến nay tỷ trọng về số lượng bò vỗ béo trước khi bán thịt so với tổng đàn bò trong toàn huyện vẫn còn chiếm một tỷ lệ thấp.
Nguồn thịt bò cung cấp cho nhu cầu của thị trường hiện nay chủ yếu là những bò loại thải có thể trạng yếu. Vì thế những bò đem giết thịt có tỷ lệ thịt xẻ thấp, chất lượng thịt kém.
Trước tình hình nhu cầu về thịt ngày càng tăng của xã hội thì việc chăm sóc, vỗ béo đàn bò thịt, chủ yếu là bò già không còn khả năng sinh sản; bê và bò đực không còn sức kéo là điều cần thiết tạo nguồn thu nhập lớn đối với hộ chăn nuôi. Tận dụng nguồn thức ăn sẵn có tại địa phương, việc sử dụng phế phụ phẩm để vỗ béo bò trước khi giết thịt trong thời gian 60-90 ngày để tăng sản lượng thịt và tăng thu nhập cho người chăn nuôi là một yêu cầu được đặt ra. Đây là một nguồn thu nhập lớn đối với các hộ chăn nuôi, Nếu phát huy tốt thì đây sẽ là hướng làm ăn mới trong phát triển kinh tế cho các hộ dân, tạo công ăn việc làm vì trong điều kiện không có đồng cỏ để chăn thả thì việc nuôi nhốt và bổ sung thức ăn tinh là hợp lý và đem lại hiệu quả cao. Vì vậy Chúng tôi xin giới thiệu kỹ thuật vỗ béo bò trước khi giết thịt như sau:
Nội dung quy trình vỗ béo.
1. Loại bò đưa vào vỗ béo và cách chọn.
Bò đưa vào nuôi vỗ béo là các bò cái, bò đực, thuần hoặc lai, không sử dụng vào mục đích sinh sản, cày kéo; Bò sữa loại thải; bò gầy do thiếu dinh dưỡng, Bò hướng thịt hết giai đoạn nuôi lớn; Bê nuôi hướng thịt.
Để nuôi vỗ béo lấy thịt đạt hiệu quả cao cần chọn những con không quá già, không mắc bệnh.
Bò bị bệnh thông thường phải điều trị khỏi bệnh trước khi đưa vào vỗ béo.
Ngoài ra cần lưu ý đến các yếu tố sau:
- Giống: Các giống bò lai phát triển nhanh hơn các giống bò địa phương.
- Giới tính: Bò đực tăng trọng nhanh hơn bò cái.
- Tuổi: Bò càng già hiệu quả sử dụng thức ăn càng kém, khả năng tăng trọng chậm.
- Thể trạng: Bò có thể trạng gầy, khung xương to cho hiệu quả cao hơn bò có thể trạng béo.
2. Tẩy ký sinh trùng:
Trước khi đưa vào vỗ béo bò phải tẩy ký sinh trùng theo các phương pháp dưới đây
a/ Ngoại ký sinh trùng: ve, rận, ruồi…
- Sử dụng các loại thuốc có phổ hoạt lực rộng như neuguvon hoặc asunto. Hòa thành dung dịch tắm hoặc xoa, liều sử dụng phải thực hiện theo đúng hướng dẫn của nhà sản xuất.
Pha và sửa dụng thuốc: sử dụng Nevugvon với liều phổ biến 1,25g/lít nước. Bổ sung 50ml dầu ăn và 20 gram xà phòng bột lắc đều trước khi sử dụng. Dung bình phun đều lên toàn bộ cơ thể bò đặc biệt vùng bẹn, vùng nách và vùng yếm. Có thể đeo găng tay, dùng dẽ để bôi thuốc, không để thuốc bám vào người, quần áo, không hút thuốc, ăn uống trong khi pha và bôi thuốc.
Nếu không có loại thuốc trên có thể sử dụng thuốc sau có tác dụng tương tự.
- Pha Bayticol hoặc Amitaz thành dung dịch 0,2%, nhúng ướt một miếng xốp hoặc đụn giẻ vào dung dịch và xoa lên cơ thể bò.
- Phun lên cơ thể bò dung dịch Amitaz hoặc Hantox đã pha sẵn.
- Tiêm Ivermectin, liều 0,2 mg/kg khối lượng cơ thể ( thuốc này còn có tác dụng tẩy giun tròn).
- Thuốc thông dụng (dễ tìm) Depterex 0,5% (5%).
b/ Diệt nội ký sinh trùng:
(Tẩy giun sán đường ruột, giun phổi, sán lá gan).
Sử dụng các loại thuốc có phổ hoạt rộng như: Levamisole 7,5 % (liều 01ml/ 20kg khối lượng cơ thể), Tetramisole điều trị nội ký sinh trùng đường ruột (tiêm bắp hoặc tiêm dưới da).
Fasinex: 01 viên cho 75 kg khối lượng cơ thể điều trị sán lá gan (thuốc uống) hoặc Tolzan F liều 8mg/kg khối lượng cơ thể (thuốc uống).
Sán lá gan thuốc thông dụng: Dovinic ( tiêm ) Đertil B (uống)
3. Thức ăn:
Thức ăn dùng vỗ béo bò bao gồm: thức ăn thô xanh, phụ phẩm, thức ăn tinh, thức ăn bổ sung khoáng và vitamin... Căn cứ vào nguồn thức ăn sẵn có để lựa chọn các nguyên liệu chính như sau:
* Thức ăn thô xanh: Các loại cỏ, thức ăn ủ chua, phụ phẩm nông nghiệp, phụ phẩm công nghiệp (bã bia, bã rượu, rỉ mật, bã đậu, bã dứa, vỏ hoa quả) chiếm tỷ lệ 55-60% vật chất khô trong khẩu phần.
* Thức ăn tinh: Các loại hạt ngũ cốc, họ Đậu, cám (cám gạo, cám mỳ...), các loại khô dầu, thức ăn hỗn hợp... chiếm 40-45% vật chất khô trong khẩu phần. Lúc đầu nên cho bò ăn nhiều thức ăn thô xanh, tập cho bò ăn ít thức ăn tinh để bò làm quen với khẩu phần năng lượng cao trong thời gian 5 – 10 ngày.
Trên cơ sở các loại nguyên liệu thức ăn trên, bổ sung khoáng và vitamin phối hợp thành khẩu phần hoàn chỉnh để vỗ béo bò theo công thức (xem bảng)
- Khẩu phần vỗ béo (kg/con/ngày):
Khối lượng bò |
Cỏ tươi |
Cỏ khô |
Rơm lúa |
Thức ăn hỗn hợp |
200 |
15 |
1 |
4 |
1,5 |
230 |
20 |
1 |
4 |
2,0 |
260 |
20 |
1 |
4 |
2,5 |
290 |
25 |
1 |
4 |
3,0 |
320 |
30 |
1 |
4 |
3,5 |
350 |
30 |
1 |
4 |
4,0 |
Khi cho bò ăn theo khẩu phần vỗ béo, chúng ta phải tập dần để bò quen với thức ăn mới, sau đó tiến hành cho ăn thức
4. Chuồng trại và phương thức vỗ béo.
Vỗ béo bằng phương thức nuôi nhốt tại chuồng có sân cho bò vận động, cung cấp thức ăn, nước uống và cho ăn tự do theo yêu cầu. Chuồng nuôi đảm bảo thoáng mát, sạch sẽ, bò đi lại tự do trong chuồng. Theo dõi số lượng thức ăn hàng ngày để bổ sung và điều chỉnh lượng thức ăn kịp thời.
Chuồng trại: Mục tiêu là để thuận lợi cho công tác nuôi dưỡng, quản lý đàn bò. Xây dựng chuồng nuôi bò thịt phụ thuộc vào quy mô chăn nuôi hộ gia đình hay trang trại, phương thức chăn nuôi là nuôi thả hay nuôi nhốt, .. Nhưng chú ý phải được xây dựng ở những nơi cao ráo, sạch sẽ, thoáng mát về mùa hè, ấm áp về mùa đông. Hướng chuồng xây theo hướng Nam hoặc Đông Nam, diện tích chuồng nuôi bình quân 3-5 m2/ con. Tùy theo quy mô mà chuồng có thể xây dựng 1 dãy hoặc 2 dãy. Nền chuồng phải làm chắc, không láng trơn, có độ dốc 2-3% về phía rãnh thoát. Cần trang bị máng ăn, máng uống dọc theo hành lang, kích thước máng ăn 60 cm x 120 cm, cao phía sau 80 cm, cao phía trước 50 cm, trong lòng máng hình lòng mo. Kích thước máng uống dài x rộng x sâu là 60 cm x 60 cm x 40 cm. Rãnh thoát nước thải thiết kế phía sau rộng 30 cm, sâu 30 cm, độ dốc 5-8%. Ngoài ra cần bố trí thêm hố ủ phân hoặc hầm biogas, hệ thống rèm che cách tầm bò với 1-1,5m, hệ thống cây xanh chống nóng cho bò trong mùa hè, ...
5. Vệ sinh thú y.
Tiêu độc, khử trùng và vệ sinh chuồng trại.
Vệ sinh phòng bệnh: Thực hiện phương châm “Phòng bệnh hơn chữa bệnh”. Chuồng trại, máng ăn, máng uống, môi trường xung quanh và cơ thể bò phải luôn được sạch sẽ. Định kỳ tẩy uế chuồng trại, khu vực xung quanh chuồng nuôi, phát quang bờ bụi, khơi thông cống rãnh, thu gom xử lý chất thải. Thức ăn nước uống phải đảm bảo sạch sẽ, an toàn vệ sinh. Thường xuyên kiểm tra theo dõi đàn bò khi có dấu hiệu biểu hiện không bình thường cần can thiệp ngay, định kỳ tẩy nội, ngoại ký sinh trùng cho bò, nhất là bò trước khi vỗ béo. Đồng thời tiêm vacxin phòng bệnh đầy đủ các loại bệnh bắt buộc cho bò 2 lần / năm như: bệnh tụ huyết trùng trâu bò, lở mồm long móng, ...
Chuồng nuôi phải được làm vệ sinh hàng ngày và phải được khử trùng định kỳ theo chế độ phòng bệnh của thú y.
Định kỳ dùng vôi bột, nước vôi ( tỷ lệ 10% ), dung dịch Iodin 5%, dung dịch Crezyl 3% tẩy uế chuồng trại.
6. Thời gian vỗ béo.
Thời gian vỗ béo 60 - 90 ngày (dự kiến tăng trọng 800-1200g/con/ngày). hoặc 24-36 kg/con/tháng ( trung bình 30kg/con/tháng) tùy theo loại bò, đảm bảo được yêu cầu chăn nuôi vỗ béo bò là tiêu tốn thức ăn thấp nhất, tỷ lệ tăng trọng cao nhất và có hiệu quả kinh tế cao nhất. Nếu dưới 2 tháng thì bò chưa phát huy hết khả năng tăng trọng, còn nếu kéo dài trên 3 tháng thì nuôi sẽ bị lỗ do bò sử dụng nhiều thức ăn tinh và lúc này bò khả năng tăng trọng của bò giảm dần, hiệu quả kinh tế sẽ không cao.
7. Hiệu quả kinh tế trong chăn nuôi bò vỗ béo.
Vỗ béo là biện pháp tích cực để phát huy cao độ khả năng sinh trưởng bù của bò khi ở giai đoạn trước không nuôi thâm canh. Hiệu quả nuôi phụ thuộc vào các yếu tố chính sau:
+ Giá trị bò mua vào để vỗ béo: Lợi nhuận càng cao khi giá mua vào càng thấp, trong điều kiện vỗ béo những bò đã trưởng thành thì giá mua vào phải thấp hơn giá bán tại thị trường.
+ Giá bán ra sau khi vỗ béo: Giá bán cao, lãi xuất cao.
+ Chi phí thức ăn: Tận dụng các loại phụ phẩm, tăng cường chế biến thức ăn để nâng cao tỷ lệ sử dụng, tỷ lệ tiêu hóa, giảm lãng phí để hạ thấp giá thành.
+ Thời gian nuôi: Những bò trưởng thành thường vỗ béo trong 2 tháng và bê vỗ béo trong 3 tháng.
+ Chi phí chuồng trại thấp khi sử dụng các loại chuồng nuôi đơn giản, hợp vệ sinh